Nhà » Kỹ thuật trồng trọt » Trang 3

thể loại: Kỹ thuật trồng trọt

Vai trò của từng loại dinh dưỡng đối với cây lúa

* Dinh dưỡng đạm (Ký hiệu là N).

Đạm giúp cây sinh trưởng phát triển tốt, thiếu đạm cây phát triển thân lá kém, lá chuyển màu xanh vàng, cây thấp, bông ngắn, lép nhiều. nếu bón quá nhiều đạm, bón không cân đối với lân và kali hoặc bón không đúng kỹ thuật dễ dẫn đến lốp đổ, hạt lép nhiều, sâu bệnh phá hại nặng.

* Dinh dưỡng lân (Ký hiệu là P).

Ngoài hàm lượng lân, phân lân còn có vôi và một số khoáng chất khác. Lân kích thích cây ra rễ mạnh, hình thành nhiều nốt sần, hạt chắc.

Một số loại phân lân còn có tác dụng cải tạo đất chua như phân lân nung chảy Văn Điển…

* Dinh dưỡng Ka li (ký hiệu là K).

Kali có tác dụng làm cứng cây, quang hợp tốt, bông to, chắc hạt, chống rét, hạn chế sâu bệnh. Kali dễ hoà tan, phân huỷ nhanh. Không nên bón kali khi lá lúa còn ướt sẽ làm khô táp lá.

* Dinh dưỡng hỗn hợp NPK

Có đầy đủ các thành phần Đạm, Lân, thời gian.

Để tránh bị phân lân và phân NPK chất lượng kém, chỉ mua phân bón của cơ sở sản xuất phân có uy tín.

* Dinh dưỡng vi lượng

Bổ sung các chất dinh dưỡng cho cây. Chỉ sử dụng khi thấy cần thiết.

Phương pháp bón phân theo bảng so màu lá lúa

Phương pháp bón phân theo bảng so màu lá lúa

  1. Bảng so màu lá lúa

Được chế tạo theo công nghệ của Nhật Bản nhằm xác định màu sắc lá lúa để dự đoán tình trạng dinh dưỡng Đạm ở cây. Bảng có 6 khung màu từ xanh vàng nhạt đến xanh đậm.

  1. Cách sử dụng

+Xác định tình trạng dinh dưỡng ở cây:

Đưa lá luá vào khung, đồng thời di chuyển cho tới khi trùng với màu trong khung là được. Màu lá trùng với màu khung thứ nhất, là, hoặc ba… thì được ghi nhận tình trạng đạm trong cây ở số đó.

+ Chọn lá trên cùng đã phát triển đầy đủ để so màu :

Đo khoảng 20 lá của các khóm lúa khác nhau để lấy số trung bình. Số trung bình này thể hiện tình trạng dinh dưỡng đạm trong cây của ruộng lúa. Cứ 7 ngày đo một lần, tính từ ngày thứ 14 sau khi gieo hoặc cấy để xác định chính xác thời điểm cần thúc đạm.

Thời kỳ bón thúc đạm:

Bón thúc đạm thích hợp nhất khi lá lúa có màu sắc như ở khung chuẩn (số 3- 5) tuỳ theo giống lúa. Thí dụ, Giống lúa ngắn ngày cao sản ở ĐBSCL có khung số 4 là chuẩn. Khi lá lúa có màu tương tự như khung số 4, có nghĩa lúa thiếu đạm. Vì vậy, cần thúc đạm ngay cho lúa.

Liều lượng bón theo bảng hướng dẫn dưới đây.

  Thời kỳ Vụ đông xuân
( kg Ure / ha)
Vụ hè thu
( kg Ure / ha)
 
– Đẻ nhánh 55- 65 76- 87
– Làm đòng 45 65

Nhu cầu dinh dưỡng của cây lúa

Nhu cầu dinh dưỡng của cây lúa

– Nhu cầu về số lượng: Để tạo được 1 tạ thóc cần 2 kg N; 0,7- 0,9 kg P2O5 ; 3,2 kg K2O và 2kg Si. Vì vậy, để đạt năng suất hạt 6-7 tấn/ ha/ vụ cần bón cho lúa số lượng phân bón như sau: 8-10 tấn phân chuồng, 100 -120 kg N / ha, 100 -120 kg P2O5/ ha và 30 -60 K2O kg / ha. Ở đất phù sa sông Hồng, sông Cửu Long, kali chưa phải là yếu tố hạn chế năng suất. Đất phèn nặng, cần tăng phân lân lên 90 – 150 P2O5 kg / ha (Mai Văn Quyền, 1995).

Nguyên tắc bón phân:

Tuân thủ nguyên tắc 4 đúng:

– Đúng liều lượng

– Đúng chủng loại

– Đúng thời điểm

– Đúng kỹ thuật

Những căn cứ để quyết định bón phân cho lúa:

– Giai đoạn sinh trưởng của cây lúa – Thời tiết, khí hậu

– Đặc tính của đất – Lượng và loại phân bón

– Giống – Biện pháp canh tác

Bảng so màu bón phân đạm cho lúa

Thang so màu lá lúa chuẩn mới của IRRI có 4 ô, đánh số 2; 3; 4; 5. Thang màu giữa trị số 3 và 4 tương đương 3,5 là đạt trị số chuẩn. Màu lá lúa ở mức này là đủ đạm. Thang màu dưới 3,5 (lúa cấy), dưới 3 (lúa sạ) cần bón bổ sung phân có đạm

Liều lượng bón:

Bón đủ mức phân cần cho cây trồng để đạt được năng suất cao và có hiệu quả kinh tế. Tuy nhiên, tuỳ thuộc vào trình độ thâm canh và khả năng đầu tư mà mức phân bón cũng phải thay đổi cho phù hợp. (Xem mục kĩ thuật bón phân cho các vùng)

Chủng loại và thời điểm bón:

Mỗi giai đoạn sinh trưởng của cây lúa có nhu cầu khác nhau về phân bón. Ruộng lúa ở giai đoạn đẻ nhánh cần nhiều phân đạm, nhưng bón đạm sau lúc lúa trỗ dễ làm bệnh khô vằn và bệnh bạc lá phát triển mạnh. Bệnh tiêm lửa thường phát sinh trên ruộng bón thiếu phân.

Giống lúa có thời gian sinh trưởng ngắn (<120 ngày): Bón tập trung, bón lót sâu là chính.

Giống lúa thâm canh cao (lúa lai): Bón lót sâu, bón thúc sớm.

Bón thúc cho lúa nhằm vào 2 thời kỳ chính: đẻ nhánh và làm đòng. Thời kỳ lúa làm đòng có thể bón thúc vào 1 đó 2 đợt ( bón đón đòng hoặc nuôi đòng).

Hiện tượng lốp đổ của cây lúa

Nguyên nhân: lúa lốp đổ là do bón nhiều đạm, bón không cân đối đạm, lân và kali .

Có 3 nguyên nhân gây nên hiện tượng lốp, Độ không:

– Do đặc tính của giống

– Do điều kiện ngoại cảnh ( thiếu ánh sáng, mưa nhiều, gió bão và đất quá tốt)

– Do kỹ thuật canh tác( mật độ, bón phân và tưới tiêu không hợp lý).

+ Hiện tượng ruộng lúa lốp: Diện tích lá quá cao, quá trình quang hợp và tích luỹ chất khô tiến hành không được bình thường, lượng gluxít ở lá bị giảm sút, từ đó giảm khả năng tổng hợp protit của cây.

+ Hiện tượng lúa đổ: lúa sinh trưởng quá mạnh, lá nhiều, thân cao và yếu. Do đó, sức chống đỡ của các đốt bên dưới không chịu nổi sức nặng của các bộ phận trên, dẫn đến hiện tượng lúa đổ non vào trước hoặc sau lúc trỗ.

Biện pháp phòng chống lốp, đổ:

– Chọn giống chịu phân và chống đổ ( thấp cây, chịu phân, lá ngắn hẹp và đứng)

– Bón phân đạm hợp lý và cân đối với lân và ka li.

Kỹ thuật sạ lúa

  1. một) Sạ khô: Áp dụng đối với những vùng cây lúa sinh trưởng chủ yếu nhờ nước trời.

Tuỳ điều kiệncó thể thực hiện theo những phương pháp sau:

  • Dùng bừa kéo thành rãnh có độ sâu 1- 3cm. Gieo hạt theo rãnh sau đó lấp đất kín, hạt sẽ nảy mầm thành cây lúa.
  • Có thể gieo hạt tự do, chọc lỗ bỏ hạt theo hốc sau đó lấp hạt.
  1. b) Sạ ướt: Là phương thức sạ phổ biến nhất.
    Cách sạ: Làm luống để dễ chăm sóc và quản lí nước, kích thước luống từ 2,5- 4m tuỳ theo diện tích ruộng gieo đều trên toàn bộ mặt luống. Ở những ruộng mà mặt ruộng khá bằng phẳng chỉ cần chia theo rạch để tiện chăm sóc, gieo nặng tay, chìm hạt và đều trên mặt ruộng.
  2. c) Sạ ngầm (Gieo chìm hạt ):
    Được áp dụng ở Đồng bằng sông Cửu Long, khi ruộng bị ngập nước trong mùa lũ và sau đó rút nhanh chóng, do đó lượng hạt giống gieo cao hơn so với các phương pháp sạ khác. Khi mực nước từ 10- 20cm, cần tiến hành lồng đất. Hạt giống đã được ngâm 10 giờ và đem gieo khi mực nước chỉ còn 10- 15cm. Sau khi gieo 2- 4 ngày, nước ruộng phải được rút hết. Trong thời gian này, hạt tiếp tục hút nước, nảy mầm và mọc thành cây.
  3. d) Sạ bằng máy theo hàng:

    Nguyên lý hoạt động: rắc hạt bằng trống đựng hạt xoay tròn.

    Các loại máy thông dụng có 6 trống, gieo được 12 hàng với khoảng cách 16 cm X 2-3cm.

    Ưu điểm của phương pháp này là năng suất lao động tăng, giảm bớt công tỉa dăm, ruộng lúa thông thoáng, chủ động độ sâu gieo, chủ động mật độ song yêu cầu làm đất kỹ, mặt ruộng bằng phẳng để dễ điều tiết nước.

Kỹ thuật chăm sóc lúa sạ

Khâu quản lý chăm sóc có tính chất quyết định năng suất lúa gieo sạ. Yêu cầu là lúa mọc đều, bảo đảm số cây trên đơn vị diện tích và phòng trừ tốt cỏ dại và sâu bệnh.

Nước: Sau gieo phải giữ ẩm cho hạt mọc đều. Khi cây bắt đầu mọc, cho nước vào ruộng ở mức 1- 3 cm và điều chỉnh nước theo sinh trưởng của cây.

Làm cỏ, tỉa dặm: Cần tỉa dặm sớm khi lúa được 4- 5 đó. Kết hợp bón phân và làm cỏ đợt 1 nhằm tạo điều kiện cho lúa đẻ nhánh sớm.

Bón thúc: Bộ rễ của lúa gieo sạ phát triển mạnh ở lớp đất mặt, nhu cầu dinh dưỡng cần nhiều hơn. Cần bón thúc sớm cho cây mọc khỏe, ra lá nhanh, đẻ sớm và kết thúc sớm, bón nặng thời kỳ đầu để lúa đẻ tập trung. Bón thúc còn tuỳ thuộc vào điều kiện đất đai, giống lúa và thời gian sinh trưởng của giống. Sông theo TS. Nguyễn Văn Hoan. Tường Đại học nông nghiệp I, Bón thúc cho lúa sạ thâm canh có các thời kỳ cơ bản sau:

  • Lúa có 2 đó: Thúc 3 kg đạm Urê + 3 kg kali clorua cho 1 sào Bắc bộ hay 80kg Urê + 80kg kali clorua cho 1ha.
  • Lúa có 6 đó: Thúc lần 2 bằng 3 kg đạm Urê + 3 kg kali clorua cho 1 sào Bắc bộ hay 80kg Urê + 80kg kali clorua cho 1ha.
  • Lúa phân hoá đòng: Bón thúc tiếp 2kg đạm Urê + 2 kg kali clorua cho 1 sào Bắc bộ hay 55kg Urê + 55kg kali clorua cho 1ha.
  • Lúa trỗ báo: Bón nuôI hạt lần cuối bằng 2kg đạm Urê + 4 kg kali clorua cho 1 sào Bắc bộ hay 55kg Urê + 110kg kali clorua cho 1ha.

Trừ cỏ dại: Bằng biện pháp canh tác như cày ngả sớm, ngâm kỹ diệt cỏ dại, không để ruộng mất nước. Dùng các loại thuốc trừ cỏ, loại thuốc trừ cỏ cho lúa nước thường dùng như Sofit, lượng dùng 35ml + 10lít nước phun cho 1 sào Bắc bộ, đó 1 lít nước pha với 300 lít nước phun đều cho 1ha. Phun thuốc trừ cỏ phảI phun đều, không được bỏ sót và phảI phun cả phần rãnh luống.

Phòng trừ sâu bệnh
Thường xuyên kiểm tra đồng ruộng, phát hiện và phòng trừ sâu bệnh kịp thời.

Chuẩn bị giống và làm đất trồng lúa

Chuẩn bị giống và làm đất

Chuẩn bị hạt giống

Chuẩn bị hạt giống khoẻ, đủ tiêu chuẩn chất lượng, xử lí hạt giống thực hiện tương tự như như đối với lúa cấy, chỉ khác ngâm ủ và lượng hạt giống gieo để phù hợp với gieo sạ
Sạ khô: Hạt giống đã được ngâm và no nước. Lượng hạt giống cho 1 ông có: 110- 120 Kilôgam.

Sạ ướt: Hạt giống được ngâm ủ nảy mầm. Lượng hạt giống từ 80- 100kg / ha.

Sạ ngầm: Hạt giống đã được ngâm 10 giờ và đem gieo khi mực nước chỉ còn 10- 15cm. Lượng hạt giống từ 150- 200 kg/ha do có nhược điểm là tỷ lệ nảy mầm thấp, thiếu oxy và cây mọc yếu.

Lượng giống biến động theo giống, thời vụ và đất đai. Lượng giống gieo khô lớn hơn so với gieo nước, hoặc vụ xuân lớn hơn so với vụ mùa, hạt giống có trọng lượng ngàn hạt lớn thì phải cao hơn hạt giống có trọng lượng ngàn hạt thấp. Thường thì lượng hạt giống từ 100 -120 kg / ha. Ở các tỉnh phía Bắc nếu tính theo sào Bắc bộ vụ xuân từ 3,5 – 4 kg/sào, vụ mùa từ 3,0 – 3,5 kg/ sào

Kỹ thuật làm đất
Làm đất gieo khô: Làm đất kỹ, mặt ruộng phẳng, có hệ thống tưới tiêu chủ động và sạch cỏ dại.
Làm đất gieo ướt (nước): Làm đất kỹ hơn, mặt ruộng phẳng, có hệ thống tưới tiêu chủ động, sạch cỏ dại, rút nước để gieo.