Home » Trang chủ

Pro Hume Root

_DSC6803 (Small)

Pro Hume Root là sản phẫm phân bón hữu cơ, sinh học được sản xuất dựa trên công thức và công nghệ tiên tiến nhất hiện nay.

Pro Hume Root được tích hợp rất nhiều công năng như cải tạo đất bao gồm: giúp tiêu diệt nấm, khuẩn bệnh; làm đất tơi, xốp; phân hủy bả động, thực vật tồn chứa trong đất; xử lý ngộ độc hữu cơ và kim loại nặng; cân bằng độ pH của đất ( hạ phèn, giãm mặn); cung cấp dinh dưỡng hữu cơ và làm gia tăng mật độ vi sinh có ích cho đất như cố định đạm, trichoderma,…

Pro Hume Root đồng thời giúp bộ rễ cây trồng phát triển mạnh mẻ, giúp cây tăng sức đề kháng với mầm bệnh và phát triển cân đối, giúp tăng năng suất với trái to, chắc, tăng độ ngọt và đặc biệt là đạt tiêu chuẩn Global GAP cho xuất khẩu và tiêu dùng nội địa.

Thông báo tuyển dụng

Công ty hiện có nhu cầu tuyển dụng Trưởng phòng kinh doanh theo các tiêu chí và điều kiện như sau :

  1. Mô tả công việc :
  • Lập kế hoạch tiếp thị, bán hàng tháng, quý , năm
  • Trực tiếp tiếp thị, bán hàng khu vực miền tây
  • Hướng dẫn và quản lý nhân viên kinh doanh tiếp thị, bán hàng

2) Các kỹ năng cần có :

  • Nam từ 27 đến 35 tuổi, có ít nhất 3 năm kinh nghiệm ở vị trí Trưởng phòng kinh doanh phân bón.
  • Có bằng Đại học chuyên ngành thương mại, quản trị kinh doanh
  • Trung thực, tích cực, chủ động làm việc.
  • Chấp nhận thường xuyên đi công tác tỉnh.
  • Có kỹ năng giao tiếp tốt trong việc tiếp thị, bán hàng cho đại lý.

3) Quyền lợi được hưởng :

  • Có mức lương và thưởng hấp dẫn.
  • Làm việc trong môi trường thân thiện, chuyên nghiệp
  • Được hưởng mọi chế độ bảo hiểm theo luật định

4) Hồ sơ cần có :

  • Ứng viên xin gởi hồ sơ (CV) tự viết và các bản scan bằng cấp về Email công ty chúng tôi, Công ty chúng tôi sẻ liên lạc với ứng viên đủ điều kiện để thông báo lịch hẹn phỏng vấn.

THÀNH PHẦN, CÔNG DỤNG VÀ LIỀU LƯỢNG SỬ DỤNG CÁC CHẾ PHẪM PRO CROPMASTER

PRO ROOT SAVER      

Thành phần :

– Đạm             :         0,45%

– Lân (P2O5)  :         0,08%

– Kali (K2O)  :         1,65%

– Tảo biển    :         29%

– Axít Humic         27%

– Vi sinh Bacillus Bacteria         :         13,52 X 109 Cfu/lít

Công dụng :

Bón ngay sau khi xuống giống để giúp bộ rễ cây trồng phát triển mạnh mẽ thông qua việc cải tạo và xử lý đất : hạ phèn, giãm mặn, cân bằng độ pH của đất, làm đất tơi xốp, giúp đất giàu đạm và mùn, phân hủy bả động thực vật tồn chứa trong đất, đồng thời cung cấp dinh dưỡng cần thiết cho cây trồng.

Vi sinh có mặt trong sản phẫm sẻ góp phần bảo vệ cây trồng và nông phẩm thông qua việc tiêu diệt hầu hết các loại nấm hại gây bệnh.

Bón ngay khi cây có biểu hiện bị úng rễ do ngập nước hay bệnh do nấm gây ra.

Liều lượng sử dụng

Sử dụng 3 lít/ha đối với hoa màu và cây lúa ; 6 lít/ha đối với cây công nghiệp và ăn trái.

 

PRO HUME PLUS

    Thành phần:

   – Đạm                                      :         0,15%

– Lân ( K2O)                            :         2%

– Axít Humic                          :         33%

– Tảo biển                               :         32%

– Chất điều hòa sinh trưởng      :         10%  

– Vi sinh Bacillus Bacteria         :         13,52 X 109 Cfu/lít

   Công dụng

Bón vào giai đoạn đầu xuống giống nhằm cung cấp đầy đủ dưỡng chất và chất điều hòa sinh trưởng cần thiết cho cây trồng

Bón ngay sau vụ thu hoạch để dưỡng cây và giúp cây có tuổi thọ lâu dài hơn.

Bón trước giai đoạn cây ra hoa đối với cây ăn trái và cây công nghiệp nhằm giúp cây khỏe và cho năng suất, chất lượng sản phẫm cao hơn.

Các loại vi sinh có trong sản phẫm góp phần cải tạo và xử lý đất, đồng thời tiêu diệt hầu hết các loại nấm gây hại cho cây trồng.

 Liều lượng sử dụng

Sử dụng 3 lít/ha đối với hoa màu ; 4 lít/ha đối với cây lúa ; 6 lít/ha đối với cây công nghiệp và ăn trái.

 

PRO GREEN

Thành phần

– Đạm                                          :         6,6%

– Lân (P2O5)                               :         1,5%

– Kali (K2O)                                :         3,3%

– Axít Humic                              :         15%

– Chất điều hòa sinh trưởng      :         30%

 Công dụng

Bón vào giai đoạn cây cần phát triển thân, cành lá sau khi xuống giống hoặc sau khi tỉa cành đối với cây công nghiệp, ăn trái giúp cây đâm nhiều chồi, thân, cành và cho nhiều trái hơn.

Đối với cây hoa màu : dưa, mướp, bầu, bí, cải, rau ăn lá, ớt,…nên bón trong khoảng từ ngày thứ 12 đến ngày thứ 17 sau khi xuống giống.

Đối với cây lúa, nên sử dụng trong khoảng từ ngày thứ 20 đến ngày thứ 25 sau khi xuống giống.

Đối với cây công nghiệp nên sử dụng khoảng 20 ngày trước khi cây ra hoa hoặc trước giai đoạn thu hoạch.

Sản phẫm còn có công dụng diệt các loại nấm hại ký sinh trên thân, lá, và đồng thời thúc đẩy quá trình quang hợp, chuyển hóa dinh dưỡng của cây giúp cây có bộ lá và thân phát triển mạnh mẽ

Liều lượng sử dụng :

Sử dụng khoảng 3 lít/ha đối với hoa màu và cây lúa ; Từ 4 lít/ha đến 6 lít/ha đối với cây công nghiệp và ăn trái.

 

PRO 5-30-10Bo                      

 Thành phần

– Đạm                              :         5%

– Lân (P2O5)           :         30%

– Kali (K2O)            :         10%

– Boron                  :         0,05%

– Chất đuổi côn trùng, sâu bọ và chất điều hòa sinh trưởng : 2%

Công dụng

Kích thích cây trồng ra hoa mạnh trong giai đoạn cây đang ra hoa, kết trái. Chất điều hòa sinh trưởng dẫn hướng cho đạm, lân, kali, bo hữu cơ giúp trái to, chắc, bóng, màu đẹp, tăng hàm lượng đường và chín đồng thời; lúa no, chắc, sáng đẹp. Tăng tỷ lệ đậu trái và giãm rơi rụng, hao hụt trong thu hoạch cho lúa. Chất đuổi côn trùng giúp bảo vệ trái và tránh các loại sâu, từ đó giãm sử dụng thuốc sâu ( giãm chi phí và tạo ra sản phẫm “sạch”, đẹp có giá bán cao hơn )

Đối với hoa màu, nên sử dụng khi có bông, trái và lập lại sau mỗi đợt thu hoạch.

Đối với cây lúa, nên bón đón đòng ( khoảng ngày thứ 40 – 45) , dưỡng hạt ( khoảng ngày thứ 60 – 65 ) và khi lúa cong trái me       ( khoảng ngày thứ 75 80 ).

Đối với cây công nghiệp và ăn trái, nên bón trên lá, hoa trước và trong khi cây ra hoa, đậu trái.

Liều lượng sử dụng

Sử dụng khoảng 6 lít/ha cho mọi loại cây trồng chia làm nhiều đợt. Đối với hoa màu và cây lúa, không được sử dụng quá 2 lít/ha/lần. Đối với cây công nghiệp và ăn trái, không được sử dụng quá 3 lít/ha/lần.

 

PRO 0-31-23Bo

Thành phần

– Lân  ( P2O5)         :         31%

– Kali ( K2O)           :         23%

– Boron                  :         0,05%

– Chất đuổi côn trùng, sâu bọ và chất điều hòa sinh trưởng : 2%

Công dụng

Xịt trực tiếp lên lá, trái cho cây ăn trái trong giai đoạn dưỡng trái ( những loại không cần nhiều đạm). Dẫn xuất điều hòa sinh trưởng dẫn hướng cho lân, kali, bo và molipden hữu cơ giúp cuống trái chắc khỏe, cung cấp đầy đủ dưỡng chất để trái to, chắc, bóng, màu đẹp, hàm lượng đường cao.

Các chất đuổi côn trùng giúp bảo vệ trái trước sâu bọ.

Liều lượng sử dụng

Sử dụng từ 3 lít/ha đến tối đa 5 lít/ha cho cây công nghiệp và ăn trái.

MỘT SỐ LƯU Ý

  1. Nên lắc đều trước khi pha chung với nước không chứa clo.
  2. Nên xịt lúc sáng sớm hoặc chiều mát ( từ 2 giờ chiều trở đi )
  3. Có thể pha chung với các loại phân bón và thuốc BVTV khác.
  4. Giãm 50% lượng phân bón hóa học khi sử dụng liều lượng trên đây. Có thể bỏ hẳn phân bón hóa học nếu sử dụng liều lượng gấp đôi liều lượng trên đây.

Riêng Pro Green khi sử dụng trên cây lúa sẻ làm bộ lá lúa chuyển vàng trong vòng 3 ngày sau khi xịt, từ ngày thứ tư trở đi lúa sẻ dần xanh lại, lá cứng và dầy hơn, chống được đổ ngã và sâu bệnh.

Đặc điểm sinh học của cây lúa

Giai đoạn nảy mầm

Đời sống cây lúa bắt đầu bằng quá trình nẩy mầm. Hạt nảy mầm được cần phải hút no nước, do vậy, để hạt lúa nảy mầm cần ngâm hạt vào nước khoảng ba ngày đêm (72 giờ) hạt mới hút đủ nước. Cứ mỗi ngày đêm (24 giờ) thay nước một lần.

Hạt đã hút no nước được vớt ra, đãi sạch và ủ hạt từ 24-30 giờ. Trong suốt quá trình ngâm ủ, trong hạt xảy ra các hoạt động hoạt hoá tinh bột, protein và các chất béo để biến đổi thành những chất đơn giản cung cấp dinh dưỡng nuôi phôi, các tế bào phôi phân chia lớn lên thành mầm và rễ mầm, trục phôi trương to, đẩy mầm và rễ mầm ra khỏi vỏ trấu, kết thúc giai đoạn nảy mầm.

Điều kiện ảnh hưởng đến sự nẩy mầm

– Sức nẩy mầm của hạt: Thu hoạch lúa đảm bảo độ chín, bảo quả tốt sức nảy mầm của hạt tốt hơn. Hạt giống có vỏ trấu mỏng thường hút nước nhanh hơn giống vỏ dày, do đó thời gian nảy mầm thường ngắn hơn.

– Độ ẩm: Hạt giống nảy mầm khi hàm lượng nước của hạt đạt 25- 35% (không nẩy mầm nếu hàm lượng nước của hạt dưới 13%). Tốc độ hút nước của hạt phụ thuộc vào nhiệt độ không khí và nhiệt độ nước. Trong điều kiện thời tiết lạnh vụ đông xuân, nên ngâm hạt giống với nhiệt độ nước 25 – 300c để rút ngắn thời gian ngâm. Tuy nhiên thời gian ngâm quá dài, hạt hút nhiều nước, tinh bột trong hạt gạo phân giải thành đường rồi hoà tan trong nước làm tiêu hao chất dự trữ trong hạt. Đồng thời, hạt dễ bị chua, thối hoặc mầm yếu.

– Nhiệt độ: nhiệt độ giới hạn thấp nhất là 10 -120C , nhiệt độ thích hợp là 30 -35oC, nhiệt độ lớn hơn 400C có hại cho sự nảy mầm .

Khi hạt nảy mầm cũng cần phảI có đủ lượng không khí, chủ yếu là oxy cho mầm và rễ mầm phát triển.

Do vậy, trong kỹ thuật ngâm ủ, người ta điều tiết quan hệ nước, oxy để khống chế sự phát triển của mầm và rễ. Kinh nghiệm ”ngày ngâm đêm ủ” cũng là một biện pháp điều tiết sự phát triển của mầm và rễ cho phù hợp.

Giai đoạn mạ

Thời kỳ mạ dài, ngắn tuỳ thuộc vào giống, mùa vụ hoặc phương pháp gieo trồng. Gieo mạ ruộng (mạ dược) đối với các giống lúa cũ dàI ngày, thời kỳ mạ khoảng 40 – 45 ngày ở vụ mùa, 50 -60 ngày ở vụ đông xuân, các giống lúa ngắn ngày khoảng 25 -30 ngày. Gieo mạ nền, mạ sân tuổi mạ 15 -18 ngày ở trà xuân muộn, gieo mạ khay (mạ Nhật bản) thời gian tuổi mạ chỉ 7-10 ngày tương ứng với 2,5 -3 lá ở vụ mùa.

Từ lúc gieo đến khi ra được 3 lá thật tốc độ hình thành các lá đầu tương đối nhanh, rễ phôi cũng phát triển và hình thành vài lứa rễ đầu tiên nhưng số lượng rễ chưa nhiều.để cho cây mạ sinh trưởng thuận lợi sau khi gieo cần giữ ẩm cho ruộng mạ, tránh bị ngập hoặc hạn.

Thời kỳ này dinh dưỡng của cây mạ chủ yếu dựa vào chất dự trữ trong hạt nên chưa cần bón thúc. Cây mạ còn nhỏ, yếu, khả năng chống chịu kém. Vì vậy cần tạo điều kiện để cây mạ có khả năng chống chịu rét, sâu bệnh. ..

Từ khi cây mạ có 4 lá thật đến khi có 5 – 6 lá đối với giống trung ngày và 6 – 7 lá đối với giống dài ngày là có thể nhổ cấy.

Thời kỳ này cây mạ sử dụng dinh dưỡng từ môi trường để sống, cần chú ‎ chăm sóc, bón thúc cho mạ phát triển. Chiều cao cây, kích thước cây mạ tăng mạnh, có thể ra được 4 – 5 lứa rễ, khả năng chống chịu cũng tăng lên.

Ở phía Bắc, những năm rét nhiều, mạ sinh trưởng chậm, tốc độ ra lá chậm nên thời kỳ mạ thường kéo dài. Ngược lại, năm ấm tốc độ ra lá nhanh, sớm đạt tuổi mạ cấy, cần có biện pháp hãm mạ để tránh mạ già, mạ ống.

Thời kỳ mạ có ý nghĩa quan trọng, chăm sóc cho mạ tốt, mạ khoẻ giúp cho cây lúa khi cấy chóng hồi xanh, khả năng đẻ nhánh tốt, tạo điều kiện cho các giai đoạn sinh trưởng phát triển sau này.

Giai đoạn đẻ nhánh

Điều kiện bình thường sau cấy 5 -7 ngày cây lúa có thể bén rễ hồi     xanh, chuyển sang đẻ nhánh. Trời âm u, thiếu ánh sáng, nhiệt độ  thấp, thời gian bén rễ hồi xanh kéo dài 15 -20 ngày, thậm chí 25 – 30 ngày ở vụ chiêm xuân phía Bắc.

Thời kỳ đẻ nhánh, cây lúa sinh trưởng nhanh và mạnh về rễ và lá . Thời kỳ này quyết định đến sự phát triển diện tích lá và số bông.

Thời gian đẻ nhánh phụ thuộc vào giống, thời vụ và biện pháp kỹ thuật canh tác. Thời gian đẻ nhánh có thể kéo dài trên dưới 2 tháng ở vụ chiêm xuân, 40 – 50 ngày ở vụ mùa, 20 – 25 ngày ở vụ hè thu.

 

Trong một vụ, các trà cấy sớm có thời gian đẻ nhánh dài hơn các trà cấy muộn. Thúc đạm sớm, quá trình đẻ nhánh sớm. Bón phân nhiều, muộn, thời gian đẻ nhánh kéo dài. Mật độ gieo cấy thưa thời gian đẻ nhánh dài hơn so với cấy dày. Tuổi mạ non thời gian đẻ nhánh dài hơn so với mạ già.

Trên cây lúa chỉ có những nhánh đẻ sớm, ở vị trí mắt đẻ thấp, có số lá nhiều, điều kiện dinh dưỡng thuận lợi mới có điều kiện phát triển đầy đủ để trở thành nhánh hữu hiệu ( nhánh thành bông).

Giai đoạn này cần chăm sóc hợp lí để đảm bảo số nhánh hữu hiệu, số lá và số bông, tránh bón phân nhiều, bón muộn làm cho lúa đẻ nhánh lai rai thường làm tăng tỷ lệ nhánh vô hiệu, ảnh hưởng đến tiêu hao dinh dưỡng cũng như tăng cường sự phá hoại của sâu bệnh.

Giai đoạn phát triển đốt thân

Trên đồng ruộng sau khi đạt số nhánh tối đa cây lúa chuyển sang thời kỳ làm đốt

* Thời gian làm đốt

– Thời gian làm đốt dài hay ngắn có liên quan chặt chẽ đến thời kỳ trỗ bông, cũng như liên quan đến số lóng kéo dài trên thân nhiều hay ít.

– Giống lúa ngắn ngày có thời gian làm đốt khoảng 25 -30 ngày, giống lúa trung ngày 30 – 40 ngày và dài ngày khoảng 50 -60 ngày. Thời gian làm đốt cũng có những quy luật nhất định. ở vụ mùa, cây lúa làm đốt vào trung tuần tháng 8, trước khi làm đòng 7 đến 20 ngày tuỳ giống. ở vụ chiêm xuân, cây lúa làm đốt vào trung tuần tháng 3, trước khi làm đòng 5 – 7 ngày.

– Thời gian làm đốt, làm đòng của các giống ngắn ngày được bắt đầu cùng một lúc. Do đó thời gian làm đốt làm đòng bằng nhau. Đôi khi cũng có giống lúa phân hoá đòng rồi mới làm đốt, trong trường hợp này thời gian làm đốt ngắn hơn làm đòng.

* Quá trình làm đốt:

– Thân lúa được phát triển từ trục phôi. Trong thời kỳ sinh trưởng dinh dưỡng, thân lúa là thân giả do các bẹ lá tạo thành. Từ thời kỳ làm đốt trở đi, thân lúa chính thức mới hình thành.

– Quá trình làm đốt được tính khi lóng thứ nhất ở gốc thân có chiều dài lớn hơn 0,5 cm . Các lóng ở dưới gốc thường ngắn, tốc độ phát triển chậm. Các lóng trên dài hơn và tốc độ phát triển nhanh hơn.

– Số lóng và kích thước lóng: Số lóng trên thân phụ thuộc vào giống. Giống lúa trung ngày có 6 -7 lóng, giống lúa ngắn ngày có 4-5 lóng.

 

Giai đoạn làm đòng

Giai đoạn làm đòng ( từ phân hoá đòng đến đòng già), là quá trình phân hoá và hình thành cơ quan sinh sản, có ảnh hưởng trực tiếp đến sự hình thành năng suất lúa. Ở thời kỳ này, cây lúa có những thay đổi rõ rệt về hình thái, màu sắc lá, sinh lý, khả năng chống chịu ngoại cảnh.

Quá trình này diễn ra ở dỉnh điểm sinh trưởng của các nhánh cây lúa, có thể nhìn thấy đòng lúa bắng mát thường khi đòng đã dài 1mm, nông dân gọi là cứt gián. 

Sau khi hình thành bông nguyên thủy là giai đoạn vưon dài kết hợp với sự hình hình thành bông, gié và hoa hoàn chỉnh. Lúc này chiều dài của đòng có thể đạt từ 6-12cm, bằng 1/2 chiều dài của bông sau này. Đòng lúa lớn dần, phình to và phát triển cả về chiều dài.

Giai đoạn làm đòng kết thúc khi cây lúa có đòng già chuẩn bị trỗ bông. Từ giai đoạn bông nguyên thuỷ cây lúa còn hình thành được ba lá nữa, không kể lá đòng.

Giai đoạn làm hạt

Giai đoạn chín một lượng lớn các chất tinh bột và đường tích luỹ trong thân, bẹ lá được vận chuyển vào hạt, hạt lúa lớn dần về kích thước, khối lượng, vỏ hạt đổi màu, già và chín. Lá lúa cũng hoá già bắt đầu từ những lá thấp lên trên theo giai đoạn phát triển của cây lúa cùng với quá trình chín của hạt.

Giai đoạn chín sữa

Sau phơi màu 5 – 7 ngày, chất dự trữ trong hạt ở dạng lỏng, trắng như sữa. Hình dạng hạt đã hoàn thành, lưng hạt có màu xanh. Khối lượng hạt tăng nhanh ở thời kỳ này, có thể đạt 75 – 80 % khối lượng cuối cùng.

Giai đoạn chín sáp

Giai đoạn này chất dịch trong hạt dần dần đặc lại, hạt cứng. Màu xanh ở lưng hạt dần dần chuyển sang màu vàng. Khối lượng hạt tiếp tục tăng lên.

Trong pha khởi đầu của sự chắc hạt, hàm lượng nước của hạt khoảng 58% và giảm xuống còn khoảng 20 %. Khi nhiệt độ tăng, hàm lượng nước giảm nhanh hơn.

Giai đoạn chín hoàn toàn

Giai đoạn này hạt chắc cứng. Vỏ trấu màu vàng – vàng nhạt. Khối lượng hạt đạt tối đa.

 

Vai trò của vi sinh Trichoderma

Nấm Trichoderma spp. hiện diện gần như trong tất cả các loại đất và trong một số môi trường sống khác. Chúng là loại nấm được nuôi cấy thông dụng nhất. Chúng hiện diện với mật độ cao và phát triển mạnh ở vùng rễ của cây, một số giống có khả năng phát triển ngay trên rễ. Những giống này có thể được bổ sung vào trong đất hay hạt giống bằng nhiều phương pháp. Ngay khi chúng tiếp xúc với rễ, chúng phát triển trên bề mặt rễ hay vỏ rễ phụ thuộc vào từng giống. Vì vậy, khi được dùng trong xử lý hạt giống, những giống thích hợp nhất sẽ phát triển trên bề mặt rễ ngay cả khi rễ phát triển dài hơn 1m phía dưới mặt đất và chúng có thể tồn tạo và còn hiệu lực cho đến 18 tháng sau khi sử dụng. Tuy nhiên không nhiều giống có khả năng này.

Ngoài sự hình thành khuẩn lạc trên rễ, nấm Trichoderma còn tấn công, ký sinh và lấy chất dinh dưỡng từ các loài nấm khác. Bởi vì nơi Trichoderma phát triển tốt nhất là nơi có nhiều rễ khỏe mạnh, vì Trichoderma sở hữu nhiều cơ chế cho việc tấn công các loài nấm gây bệnh cũng như cơ chế cho việc nâng cao sự sinh trưởng và phát triển của cây. Nhiều phương pháp mới trong kiểm soát sinh học và nâng cao sự sinh trưởng của cây hiện nay đã được chứng minh rõ ràng. Quá trình này được điều khiển bởi nhiều gen và sản phẩm từ gen khác nhau. Sau đây là một số cơ chế chủ yếu: Ký sinh nấm, kháng sinh, cạnh tranh chất dinh dưỡng và không gian; sự chịu đựng các điều kiện bất lợi bằng việc gia tăng sự phát triển của cây và rễ; làm hòa tan và cô lập chất dinh dưỡng vô cơ, cảm ứng sự kháng bệnh, bất hoạt enzyme gây bệnh.

Hầu hết các giống Trichoderma không sinh sản hữu tính mà thay vào đó là cơ chế sinh sản vô tính. Tuy nhiên, có một số giống sinh sản hữu tính đã được ghi nhận nhưng những giống này không thích hợp để sử dụng trong các phương pháp kiểm soát sinh học. Phương pháp phân loại truyền thống dựa trên sự khác nhau về hình thái chủ yếu là ở bộ phận hình thành bào tử vô tính, gần đây nhiều phương pháp phân loại dựa trên cấu trúc phân tử đã được sử dụng. Hiện nay, nấm Trichoderma ít nhất 33 loài.

Khả năng kiểm soát bệnh
Rất nhiều giống Trichoderma có khả năng kiểm soát tất cả các loài nấm gây bệnh khác. Tuy nhiên một số giống thường có hiệu quả hơn những giống khác trên một số bệnh nhất định. Nhiều kết quả nghiên cứu cho thấy, nấm Trichoderma giết nhiều loại nấm gây thối rễ chủ yếu như: Pythium, Rhizoctonia và Fusarium. Quá trình đó được gọi là: kí sinh nấm (mycoparasitism). Trichoderma tiết ra một enzym làm tan vách tế bào của các loài nấm khác. Sau đó nó có thể tấn công vào bên trong loài nấm gây hại đó và tiêu thụ chúng. Chủng sử dụng trong T-22 tiết ra nhiều enzym chính yếu, endochitinase, hơn các chủng hoang dại, do đó, T-22 sinh trưởng tốt hơn và tiết ra nhiều enzym hơn các chủng hoang dại. Sự kết hợp này cho phép nó bảo vệ vùng rễ của cây trồng chống lại các loại nấm gây thối rễ trên đồng ruộng.

Những phát hiện mới hiện nay cho thấy rằng một số giống có khả năng hoạt hóa cơ chế tự bảo vệ của thực vật, từ đó những giống này cũng có khả năng kiểm soát những bệnh do các tác nhân khác ngoài nấm.

Ứng dụng của nấm đối kháng Trichoderma

Lương thực và ngành dệt
Trichoderma là những nhà máy sản xuất nhiều enzyme ngoại bào rất có hiệu quả. Chúng được thương mại hóa trong việc sản xuất các cellulase và các enzyme khác phân hủy các polysaccharide phức tạp. Nhờ vậy chúng thường được sử dụng trong thực phẩm và ngành dệt cho các mục đích tương tự.

Chất kiểm soát sinh học
Hiện nay loài nấm này đã được sử dụng một cách hợp pháp cũng như không được đăng ký trong việc kiểm soát bệnh trên thực vật. Các chế phẩm nấm Trichoderma được sản xuất và sử dụng như là chất kiểm soát sinh học một cách có hiệu quả. Hình thức sử dụng dưới dạng chế phẩm riêng biệt hoặc được phối trộn vào phân hữu cơ để bón cho cây trồng vừa cung cấp dinh dưỡng cho cây vừa tăng khả năng kháng bệnh của cây.

Kích thích sự tăng trưởng của cây trồng
Những lợi ích mà những loài nấm này mang lại đã được biết đến từ nhiều năm qua bao gồm việc kích thích sự tăng trưởng và phát triển của thực vật do việc kích thích sự hình thành nhiều hơn và phát triển mạnh hơn của bộ rễ so với thông thường. Những cơ chế giải thích cho các hiện tượng này chỉ mới được hiểu rõ ràng hơn trong thời gian gần đây. Hiện nay, một giống nấm Trichoderma đã được phát hiện là chúng có khả năng gia tăng số lượng rễ mọc sâu (sâu hơn 1 m dưới mặt đất). Những rễ sâu này giúp các loài cây như bắp hay cây cảnh có khả năng chịu được hạn hán.

Một khả năng có lẽ đáng chú ý nhất là những cây bắp có sự hiện diện của nấm Trichoderma dòng T22 ở rễ có nhu cầu về đạm thấp hơn đến 40% so với những cây không có sự hiện diện của loài nấm này ở rễ.

Nguồn gen để sử dụng trong chuyển gen
Nhiều vi sinh vật kiểm soát sinh học đều có chứa một số lượng lớn gen mã hoá các

sản phẩm có hoạt tính cần thiết sử dụng trong kiểm soát sinh học. Nhiều gen có nguồn gốc từ Trichoderma đã được tạo dòng và có tiềm năng ứng dụng rất lớn trong chuyển gen để tạo ra cây có khả năng kháng được nhiều bệnh. Chưa có gen nào được thương mại hóa, tuy nhiên có một số gen hiện đang được nghiên cứu và phát triển.

Khả năng ứng dụng ở Việt Nam
Các kết quả nghiên cứu của Trường Đại học Cần thơ, Viện Lúa Đồng Bằng Sông Cửu Long, Công ty thuốc sát trùng Việt Nam, Viện Sinh học Nhiệt đới đã cho thấy hiệu quả rất rõ ràng của nấm Trichoderma trên một số cây trồng ở Đồng Bằng Sông Cửu long và Đông nam Bộ. Các nghiên cứu cho thấy nấm Trichoderma có khả năng tiêu diệt nấm Furasium solani (gây bệnh thối rễ trên cam quýt, bệnh vàng lá chết chậm trên tiêu) hay một số loại nấm gây bệnh khác như Sclerotium rolfsii, Fusarium oxysporum, Rhizoctonia solani.

Công dụng thứ hai của nấm Trichoderma là khả năng phân huỷ cellulose, phân giải lân chậm tan. Lợi dụng đặc tính này người ta đã trộn Trichoderma vào quá trình sản xuất phân hữu cơ vi sinh để thúc đẩy quá trình phân huỷ hữu cơ được nhanh chóng. Các sản phẩm phân hữu cơ sinh học có ứng dụng kết quả nghiên cứu mới này hiện có trên thị trường như loại phân bón hữu cơ sinh học Pro CropMaster do Công ty UAS of America ( Hoa Kỳ ) sản xuất  đã được nông dân các vùng trồng cây ăn trái, cây tiêu, cây điều và cây rau hoan nghênh và ứng dụng hiệu quả.

Quản lý dịch hại tổng hợp (IPM) trên cây lúa

* ĐỊNH NGHĨA, NGUYÊN TẮC CƠ BẢN TRONG QUẢN LÝ DỊCH HẠI TỔNG HỢP.
1. Quản lý dịch hại tổng hợp (IPM) là gì?
Theo nhóm chuyên gia của tổ chức nông lương thế giới (FAO), “Quản lý dịch hại tổng hợp” là một hệ thống quản lý dịch hại mà trong khung cảnh cụ thể của môi trường và những biến động quần thể của các loài gây hại, sử dụng tất cả các kỹ thuật và biện pháp thích hợp có thể được, nhằm duy trì mật độ của các loài gây hại ở dưới mức gây ra những thiệt hại kinh tế.

  1. Năm nguyên tắc cơ bản trong quản lý dịch hại tổng hợp (IPM)
  2. Trồng và chăm cây khoẻ:

– Chọn giống tốt, phù hợp với điều kiện địa phương.

– Chọn cây khoẻ, đủ tiêu chuẩn.

– Trồng, chăm sóc đúng kỹ thuật để cây sinh trưởng tốt có sức chống chịu và cho năng suất cao.

  1. Thăm đồng thường xuyên- Kiểm tra đồng ruộng thường xuyên, nắm được diễn biến về sinh trưởng phát triển của cây trồng; dịch hại; thời tiết, đất, nước… để có biện pháp xử lý kịp thời.
  2. Nông dân trở thành chuyên gia đồng ruộng

– Nông dân hiểu biết kỹ thuật, có kỹ năng quản lý đồng ruộng cần tuyên truyền cho nhiều nông dân khác.

  1. Phòng trừ dịch hại

– Sử dụng các biện pháp phòng trừ thích hợp tuỳ theo mức độ sâu bệnh, thiên địch ký sinh ở từng giai đoạn.

– Sử dụng thuốc hoá học hợp lý và phải đúng kỹ thuật.

e.Bảo vệ thiên địch

– Bảo vệ những sinh vật có ích, giúp nhà nông tiêu diệt dịch hại.

* NỘI DUNG QUẢN LÝ DỊCH HẠI TỔNG HỢP

  1. Biện pháp canh tác
  2. Làm đất sớm và vệ sinh đồng ruộng

Làm đất sớm và vệ sinh đồng ruộng sau mỗi vụ gieo trồng có thể diệt được nhiều sâu non và nhộng sâu đục thân lúa sống trong rạ và gốc rạ; đồng thời làm mất nơi trú ngụ và nguồn thức ăn của rầy nâu, rầy xanh… là những môi giới truyền các bệnh siêu vi trùng nguy hiểm cho lúa như bệnh vàng lụi, bệnh lúa lùn xoăn lá và bệnh lại mạ.

Nguyên lý tác động của biện pháp vệ sinh đồng ruộng và xử lý tàn dư cây trồng sau vụ thu hoạch là cắt đứt được vòng chu chuyển của sâu bệnh từ vụ này sang vụ khác và hạn chế nguồn sâu bệnh tích luỹ, lây lan ngay từ đầu vụ.

  1. Luân canh

Luân canh lúa với các cây trồng khác tránh được nguồn bệnh tích luỹ trên lúa từ vụ này sang vụ khác

  1. Thời vụ gieo trồng thích hợp

Thời vụ gieo trồng thích hợp đảm bảo cho lúa sinh trưởng, phát triển tốt, đạt được năng suất cao, tránh được rủi ro về thời tiết. Việc xác định thời vụ thích hợp còn phải dựa vào đặc điểm phát sinh gây hại của các loài sâu bệnh quan trọng, đảm bảo cho lúa tránh được các đợt cao điểm của dịch bệnh.

  1. Sử dụng hạt giống khoẻ, giống chống chịu sâu bệnh, giống ngắn ngày

– Hạt giống khoẻ, sạch bệnh giúp cho cây lúa phát triển thuận lợi

– Sử dụng giống chống chịu giảm sử dụng thuốc hoá học phòng trừ sâu bệnh; giảm ô nhiễm môi trường, bảo vệ được thiên địch; giữ được cân bằng hệ sinh thái nông nghiệp.

– Giống lúa ngắn ngày với thời gian sinh trưởng khoảng 100- 110 ngày, trồng trong vụ sớm có thể tránh được sâu đục thân, sâu cắn gié. Giống lúa cực ngắn với thời gian sinh trưởng 80-90 ngày cũng là biện pháp phòng trừ rầy nâu hiệu quả, vì rầy nâu không kịp tích luỹ số lượng đủ gây hại nặng trên những giống cực ngắn ngày.

  1. Gieo trồng với mật độ hợp lý

Mật độ và kỹ thụật gieo, cấy phụ thuộc vào giống lúa, thời vụ, đất và dinh dưỡng, tuổi mạ, chất lượng mạ, trình độ thâm canh…

Mật độ quá dầy hoặc quá thưa đều ảnh hưởng đến năng suất, đồng thời còn ảnh hưởng đến sự phát sinh và phát triển của sâu bệnh, cỏ dại.

Các ruộng lúa gieo quá dầy thường khép hàng sớm, gây nên ẩm độ cao, tạo điều kiện cho rầy nâu và bệnh khô vằn phát sinh phá hại mạnh vào cuối vụ.

  1. Sử dụng phân bón hợp lí

Bón phân quá nhiều hoặc bón phân không hợp lý sẽ làm cho cây phát triển không bình thường và dễ bị sâu bệnh phá hại. Ruộng lúa bón quá nhiều phân dễ bị lốp và nhiễm các bệnh đạo ôn, khô vằn, bạc lá…

  1. Biện pháp thủ công

Bẫy đèn bắt bướm, ngắt ổ trứng, dùng rào chà tướp lá phun sâu cuốn lá, đào hang bắt chuột…

  1. Biện pháp sinh học
  2. Tạo môI trường thuận lợi cho các loại sinh vật có ích là kẻ thù tự nhiên của dịch hại phát triển nhằm góp phần tiêu diệt dịch hại:

– Bảo vệ thiên địch tránh khỏi độc hại do dùng thuốc hoá học bằng cách sử dụng những loại thuốc chọn lọc, thuốc có phổ tác động hẹp, dùng thuốc khi thật cần thiết và phải dựa vào ngưỡng kinh tế…

– Tạo nơi cư trú cho thiên địch sau vụ gieo trồng bằng cách trồng xen, trồng cây họ đậu trên bờ ruộng, làm bờ rạ cho thiên địch ẩn nấp…

– Áp dụng các kỹ thuật canh tác hợp lí tạo điều kiện cho thiên địch phát triển.

  1. ưu tiên sử dụng các loại thuốc Bảo vệ thực vật sinh học;

Các loại thuốc sinh học chỉ có tác dụng trừ dịch hại, không độc hại với các loại sinh vật có ích an toàn với sức khỏe con người và môi trường

Một số loại sinh vật có ích trên đồng lúa

  1. Biện pháp hoá học
  2. Sử dụng hợp lý thuốc hoá học BVTV

– Sử dụng thuốc theo ngưỡng kinh tế: Tiết kiệm được chi phí, giữ cân bằng sinh học trên đồng ruộng, hạn chế ô nhiễm môi trường.

– Sử dụng thuốc an toàn với thiên địch: Lựa chọn thuốc ít độc hại, chọn thời gian và phương thức xử lý ít ảnh hưởng với thiên địch.

– Sử dụng thuốc theo nguyên tắc 4 đúng:

+ Đúng chủng loại:

Mỗi loại sâu hay bệnh đều có những loại thuốc thích hợp để phòng trừ. Dùng không đúng thuốc sẽ không diệt được sâu bệnh mà còn gây lãng phí và ảnh hưởng tới thiên địch và môi trường.

+ Đúng liều l­ượng và nồng độ:

Liều lượng: Là lượng thuốc quy định cho một đơn vị diện tích (ha, sào hay công đất… mét khối kho tàng…)

Nồng độ sử dụng: Là độ pha loãng của thuốc dạng lỏng, dạng bột để phun lên cây, lượng đất bột, cát để trộn với thuốc hạt rắc vào đất.

Dùng thuốc không đủ liều lượng và nồng độ hiệu quả sẽ kém, dịch hại dễ nhờn thuốc. Sử dụng quá liều lượng và nồng độ (lạm dụng thuốc) vừa lãng phí, vừa độc hại.

Phun rải thuốc không đúng cách hiệu quả sẽ kém, thậm chí không có hiệu quả.

+ Đúng thời điểm (Đúng lúc):

Tác hại của dịch hại cây trồng chỉ có ý nghĩa khi mật độ quần thể đạt tới số lượng nhất định, gọi là ngưỡng kinh tế. Do vậy, chỉ sử dụng thuốc đối với sâu hại khi mật độ của chúng đạt tới ngưỡng kinh tế. Các biện pháp “phun phòng” chỉ nên áp dụng trong những trường hợp đặc biệt. Phun thuốc định kỳ theo lịch có sẵn hoặc phun theo kiểu cuốn chiếu là trái với nguyên tắc của phòng trừ tổng hợp.

+ Đúng kỹ thuật (đúng cách):

Dùng thuốc phải căn cứ vào đặc điểm của sâu bệnh hại. Ví dụ khi phun thuốc trừ rầy nâu phải rẽ hàng lúa để đưa vòi phun vào phần dưới của khóm lúa, nơi rầy tập trung chích hút bẹ lá.

  1. Sử dụng thuốc có chọn lọc

Trong quản lý dịch hại tổng hợp, người ta chủ trương ưu tiên dùng các loại thuốc có phổ tác động hẹp hay còn gọi là thuốc có tác động chọn lọc. Tuy nhiên, cho đến nay những nghiên cứu về tác động chọn lọc và độ an toàn của thuốc đối với thiên địch còn rất ít.

 

Quản lý nước theo thời kỳ sinh trưởng

Thời kỳ nẩy mầm: khi bảo quản hạt lúa có độ ẩm < 13%. Khi hút nước đạt 22%, hạt sẽ hoạt động và nẩy mầm tốt ở độ ẩm 25- 35%

Thời kỳ mạ:

  • Từ gieo đến mũi chông: Giữ ruộng đủ ẩm mạ chóng ngồi và mọc nhanh. Rễ lúa được cung cấp ô xy thuận lợi nên phát triển tốt và quá trình phân giải của nội nhũ cũng thuận lợi.
  • Thời kỳ mạ 3 – 4 lá đến nhổ cấy: Có thể giữ ẩm hoặc lớp nước nông 2-3 cm.

Thời kỳ ở ruộng cấy:

Từ bén rễ hồi xanh đến đẻ nhánh tối đa và phân hóa đòng đến chín cây lúa rất cần nước . Cần cung cấp nước và duy trì mức nước 3 – 5 cm ở ruộng để lúa sinh trưởng thuận lợi và đạt năng suất cao . Ngược lại, nếu mức nước quá cao, ngập úng sẽ không tốt cho sự đẻ nhánh, làm đốt và vươn lóng.

Sau đẻ nhánh tối đa đến phân hóa đốt: Rút nước phơi ruộng trong khỏang thời gian 10- 12 ngày nhằm hạn chế đẻ nhánh vô hiệu, giúp quá trình làm đốt và dòng thuận lợi hơn.

Nhu cầu nước của cây lúa

Đối với cây lúa từ lâu đã có câu ca dao “ Nhất nước, nhì phân”. Điều đó nói lên nhu cầu nước của cây lúa rất lớn.
• Cây lúa cần 400 – 450 đơn vị nước, để tạo được một đơn vị thân lá
• Cây lúa cần 300 – 350 đơn vị nước để tạo được một đơn vị hạt.
Do vậy, ngoài sử dụng nước trời, xây dựng được hệ thống thuỷ lợi tốt là yếu tố quan trọng hàng đầu cho các vùng trồng lúa.
Ở các vùng trồng lúa, cây lúa được cung cấp nước bằng các nguồn sau:
Lượng mưa: Yêu cầu 900 – 1100 mm cho một vụ lúa. Mùa mưa ở vùng đồng bằng Bắc Bộ thường bắt đầu vào tháng 5 – 6 và kết thúc vào tháng 10 – 11. Ở các tỉnh miềm Trung mùa mưa muộn hơn, thường mưa nhiều vào tháng 11-12. Lượng mưa hàng năm ở Hà Nội là 1800 mm, ở Huế 2860 mm, Thành phố Hồ Chí Minh 1980 mm, hoàn toàn đáp ứng đủ nhu cầu về nước của một vụ lúa. Tuy nhiên, trong thực tế cũng có năm lượng mưa phân bố không đều, nhất là thời kỳ đầu và giữa vụ dễ gây ra hạn hán hoặc ngập lụt đối với sản xuất lúa.
Nước mưa còn mang theo và cung cấp khoảng 16 kg đạm vô cơ / ha, nguồn ôxy và làm thay đổi tiểu khí hậu trong ruộng lúa.

Nước sông, suối, ao, hồ, đầm …: Lượng nước từ các nguồn này ngoài những nơi nước có thể tự chảy vào ruộng thì phải có hệ thống thuỷ lợi (tưới tiêu) tốt để chủ động cung cấp nước cho lúa (chống hạn). Tuy nhiên khi nước thừa thì phải thoát nước cho lúa (chống úng).
Nước phù sa từ các sông, đặc biệt là sông lớn như sông Hồng ( Đồng bằng Bắc Bộ), sông Cửu Long (Đồng bằng sông Cửu Long)… còn cung cấp lượng lớn chất dinh dưỡng từ nguồn nước phù sa cho cây lúa.

Kỹ thuật thu hoạch và bảo quản lúa

Thu hoạch lúa

  • Thu hoạch thủ công: Liềm các loại là công cụ chủ yếu và được sử dụng phổ biến tại các hộ gia đình, trang trại nhỏ.
  • Thu hoạch cơ giới: Sử dụng các máy gặt cải tiến loại vừa và nhỏ để thu hoạch lúa.
  • Đập, tuốt lúa: Đập lúa bằn tay, trục lúa bằng trục đá có trâu bò kéo, tuốt lúa bằng máy đạp chân, bằng máy tuốt thủ công nhỏ hoặc bằng máy tuốt lúa.

Nơi đập tuốt lúa phải được lót bạt, hoặc tực tiếp ở sân phơi, nhưng phải sạch rác, sạn và không được lẫn với giống khác.

Phơi sấy, cất trữ bảo quản

Phơi sấy: yêu cầu phơi khô để hạt có hàm lượng nước đạt < 13%, cũng như không cho mầm bệnh phát triển và hoạt động. Có thể sử dụng 2 phương pháp phơi sấy chủ yếu sau:

  • Phơi bằng ánh sáng mặt trời: hạt lúa nói chung có thể được phơi bằng ánh sáng tự nhiên, độ dầy 3-7 cm, thường xuyên đảo hạt để hạt khô đều, tránh cường độ ánh sáng mạnh.
  • Phương pháp làm khô bằng hệ thống quạt không khí nóng: Hạt lúa có thể làm khô băng hệ thống sấy có thổi không khí nóng với nhiệt độ 40 – 450c, thời gian sấy tùy thuộc vào ẩm độ hạt khi thu hoạch, nhiệt lượng cung cấp, cũng như khối lượng hạt cần xử lý.

Cất trữ bảo quản: Sau khi lúa đã phơI khô, quạt sạch trấu, hạt lép, đóng vào bao để bảo quản trong kho chuyên dụng. Kho bảo quản phảI được khử trùng, dọn sạch trước khi cất trữ. Ở các hộ gia đình nên cho thóc vào bồ, thùng phi hoặc thùng tôn đặt ở nơI khô ráo, thoáng mát. Thường xuyên kiểm tra ẩm mốc, mọt và chuột. Nếu bị dịch hại và ẩm mốc cần phảI xử lí ngay.

Vai trò của từng loại dinh dưỡng đối với cây lúa

* Dinh dưỡng đạm (Ký hiệu là N).

Đạm giúp cây sinh trưởng phát triển tốt, thiếu đạm cây phát triển thân lá kém, lá chuyển màu xanh vàng, cây thấp, bông ngắn, lép nhiều. nếu bón quá nhiều đạm, bón không cân đối với lân và kali hoặc bón không đúng kỹ thuật dễ dẫn đến lốp đổ, hạt lép nhiều, sâu bệnh phá hại nặng.

* Dinh dưỡng lân (Ký hiệu là P).

Ngoài hàm lượng lân, phân lân còn có vôi và một số khoáng chất khác. Lân kích thích cây ra rễ mạnh, hình thành nhiều nốt sần, hạt chắc.

Một số loại phân lân còn có tác dụng cải tạo đất chua như phân lân nung chảy Văn Điển…

* Dinh dưỡng Ka li (ký hiệu là K).

Kali có tác dụng làm cứng cây, quang hợp tốt, bông to, chắc hạt, chống rét, hạn chế sâu bệnh. Kali dễ hoà tan, phân huỷ nhanh. Không nên bón kali khi lá lúa còn ướt sẽ làm khô táp lá.

* Dinh dưỡng hỗn hợp NPK

Có đầy đủ các thành phần Đạm, Lân, Kali.

Để tránh bị phân lân và phân NPK chất lượng kém, chỉ mua phân bón của cơ sở sản xuất phân có uy tín.

* Dinh dưỡng vi lượng

Bổ sung các chất dinh dưỡng cho cây. Chỉ sử dụng khi thấy cần thiết.